Ki‑tô hữu là ai? (x. Mục 12d)

a) Là bạn của Đức Ki‑tô và người nhà của Thiên Chúa:

  • “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy dạy.” (Ga 15, 14.15; 3, 29)
  • “Anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa.” (Ep 2, 19)

b) Là người sống trong Đức Ki‑tô và mang tâm tình như Đức Ki‑tô:

  • “Chúc tất cả anh em, những người đang sống trong Đức Ki‑tô, được bình an.” (1Pr 5, 14) (x. Rm 8, 1)
  • “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki‑tô sống trong tôi.” (Gl 2, 20) (Rm 14, 7)
  • “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki‑tô.” (Pl 2, 5) (Dt 2, 11)

c) Là người yêu mến Đức Ki‑tô và đi theo Người:

  • “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy.” (Ga 14, 21.23)
  • Đức Giê-su hỏi ông Phê-rô đến ba lần: “Con có mến Thầy không?” Và ông Phê-rô đều trả lời “có”.
    (Ga 21, 15-17)
  • Người bảo ông Phê-rô: “Hãy theo Thầy.” (Ga 21, 19.22) (x. Ga 10, 27)

Giới thiệu Đức Ki‑tô cho người khác và đưa người khác đến với Người (theo Tin Mừng Gio‑an)

a) Ông Gio‑an Tẩy Giả đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giê‑su đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa.” Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê‑su. (Ga 1, 35‑37)

b) Trước hết, ông An‑rê gặp em mình là ông Si‑môn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê‑si‑a” (nghĩa là Đấng Ki‑tô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giê‑su. (Ga 1, 41‑42)

c) Ông Phi‑líp‑phê gặp ông Na‑tha‑na‑en và nói: “Đấng mà sách luật Mô‑sê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giê‑su, con ông Giu‑se, người Na‑da‑rét.” (Ga 1, 45) (x. Cv 3, 1-16)

d) Một trong các môn đệ, là ông An‑rê, thưa với Đức Giê‑su: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá…” (Ga 6, 8‑9)

e) Có mấy người Hy‑lạp đến gặp ông Phi‑líp‑phê, người Bết‑sai‑đa, miền Ga‑li‑lê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn gặp ông Giê‑su.” Ông Phi‑líp‑phê đi nói với ông An‑rê. Ông An‑rê cùng ông Phi‑líp‑phê đến thưa với Đức Giê‑su. (Ga 12, 21‑22)

Con người là quà của Chúa Cha trao ban cho Đức Giê‑su
(theo Tin Mừng Gio-an)

Nhiều lần Đức Giê‑su khẳng định như vậy:

  • “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài.” (Ga 6, 37.39)
  • “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.” (Ga 10, 29)
  • “Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh.” (Ga 17, 12) (Ga 17, 9)
  • “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con.” (Ga 17, 24)
  • Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê‑su đã nói: “Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai.”
    (Ga 18, 9)

Niềm tin số một của Ki‑tô Giáo: Đức Giê‑su là Con Thiên Chúa

  • Chính Đức Giê‑su phải chết vì tự xưng mình là Con Thiên Chúa trước Thượng Hội Đồng: Mọi người liền nói: “Vậy ông là Con Thiên Chúa sao?” Người đáp: “Đúng như các ông nói, chính tôi đây.” Họ liền nói: “Chúng ta cần gì lời chứng nữa? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói!” (Lc 22, 70‑71) (Ga 5, 18; 10, 33-36; 19, 7)
  • Si‑môn Phê‑rô tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki‑tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16, 16) (Cv 8, 36-37)
  • Ông Phao‑lô bắt đầu rao giảng sau khi trở lại với Đức Ki‑tô: Ông ở lại Đa‑mát với các môn đệ mấy hôm, rồi lập tức ông bắt đầu rao giảng Đức Giê‑su trong các hội đường, rằng Người là Con Thiên Chúa. (Cv 9, 19‑20)
  • Mác‑cô bắt đầu Tin Mừng: Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê‑su Ki‑tô, Con Thiên Chúa. (Mc 1, 1)
  • Gio‑an kết thúc Tin Mừng: Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê‑su là Đấng Ki‑tô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người. (Ga 20, 31) (x. 1Ga 3, 23)
  • Tin Mừng Gio‑an còn ghi:

Ông Na‑tha‑na‑en nói: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là vua Ít‑ra‑en!” (Ga 1, 49)

Cô Mác‑ta đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki‑tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.” (Ga 11, 27)

 Đức Giê‑su: “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6, 40)

Ông Tô‑ma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28)

  • Sách Thánh Vịnh:

Người phán bảo tôi rằng: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con.” (Tv 2, 7) (x. Mt 17, 5; Lc 9, 35)

  • Thư Do‑thái:

Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. (Dt 1, 1‑2)

Niềm tự hào của người Ki‑tô hữu và cũng là nét độc đáo nhất của Ki‑tô Giáo: Gọi Thiên Chúa là Cha

  • Chính Chúa Giê‑su đã dạy qua kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời…” (Mt 6, 9‑13) (Lc 11, 2‑4)
  • Người nói: “Áp‑ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm theo điều con muốn, mà làm theo điều Cha muốn.” (Mc 14, 36; Lc 22, 42)
  • Đức Giê-su bảo bà Ma-ri-a: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em.” (Ga 20,17)
  • Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: “Áp‑ba! Cha ơi!” (Rm 8, 15; Gl 4, 6)

Đức Giê‑su xác nhận Người không có quyền như Chúa Cha
(x. Mục 34c)

a) Khi hai người con ông Dê‑bê‑đê xin được ngồi bên hữu, bên tả Người:

  • “Việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.” (Mc 10, 40) (x. Mt 20, 20‑23)

b) Khi nói về ngày cánh chung:

  •  “Về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.” (Mc 13, 32; Mt 24, 36) (Cv 1, 7)

c) Khi báo đến việc đi về cùng Chúa Cha:

  • “Chúa Cha cao trọng hơn Thầy.” (Ga 14, 28)

Đức Giê‑su, một đời ở ngoài đường!

a) Được sinh ra ở ngoài đường:

  • Bà Ma‑ri‑a sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ. (Lc 2, 7)

b) Lớn lên ở ngoài đường:

  • Một kinh sư thưa Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Đức Giê‑su trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8, 19‑20) (x. Lc 9, 57‑58)
  • Ban ngày, Đức Giê‑su giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ô‑liu. (Lc 21, 37)

c) Chết ngoài đường:

  • Khi đến nơi gọi là Gôn‑gô‑tha, nghĩa là Đồi Sọ… Chúng đóng đinh Người vào thập giá. (Mt 27, 33‑35)
    (x. Lc 23, 33; Mc 14, 22‑24; Ga 19, 17‑18)
  • Thậm chí Người được mai táng trong ngôi mộ của người khác: Khi đã nhận thi hài, ông Giô‑xếp lấy tấm vải gai sạch mà liệm, và đặt vào ngôi mộ mới, đã đục sẵn trong núi đá, dành cho ông. (Mt 27, 59‑60)

Hai lần Đức Giê‑su xin nước

a) Có một nguời phụ nữ Sa‑ma‑ri đến lấy nước. Đức Giê‑su nói với người ấy: “Chị cho tôi xin chút nước uống.” (Ga 4, 7)

b) Đức Giê‑su biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: “Tôi khát!” (Ga 19, 28)

Hai lần Đức Giê‑su khóc

 a) Khóc thương Giê‑ru‑sa‑lem:

  • Khi đến gần Giê‑ru‑sa‑lem và trông thấy thành, Đức Giê‑su khóc thương mà nói: “Phải chi hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi!” (Lc 19, 41‑42)

 b) Khóc thương La‑da‑rô:

  • Người hỏi: “Các ngươi để xác anh ấy ở đâu?” Họ trả lời: “Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem.” Đức Giê‑su liền khóc. (Ga 11, 34‑35)

Đức Giê‑su ngủ

Các Tin Mừng chỉ ghi một lần duy nhất: Chúa ngủ. Nhưng lại là lần các môn đệ của Người cần Người tỉnh thức nhất:

  • Đức Giê‑su xuống thuyền, các môn đệ đi theo. Bỗng nhiên biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ. Các ông lại gần đánh thức Người và nói: “Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất!” (Mt 8, 23‑27) (Mc 4, 35‑41; Lc 8, 22‑25)

Bình Luận