Sai lầm của A-đam

a) Nghe lời vợ hơn Lời Chúa:

Với con người Chúa phán: “Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: Ngươi đừng ăn.” (St 3, 17)

b) Đổ lỗi cho vợ, thậm chí đổ lỗi cho cả Đức Chúa!

Đức Chúa hỏi: “Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?” Con người thưa: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn.” (St 3, 11‑12)

Hai lần lời chúc phúc quy về người con thứ thay vì con đầu lòng

a) Lời chúc phúc của ông I‑xa‑ác: (St 27, 1‑45)

  • Cậu (em) lại gần và hôn ông. Ông hít mùi áo cậu và chúc phúc cho cậu… Khi ông I-xa-ác chúc phúc cho Gia-cóp xong… thì Ê-xau, anh cậu, đi săn về… (St 27, 27.30)

b) Lời chúc phúc của ông Gia‑cóp: (St 48, 1‑22)

Ông Giu‑se thấy cha mình đặt tay phải lên đầu Ép‑ra‑im (con thứ) thì không bằng lòng, nên ông cầm tay cha kéo ra khỏi đầu Ép‑ra‑im mà đưa lên đầu Mơ‑na‑se (con đầu). Ông Giu‑se nói với cha: “Thưa cha, xin đừng làm thế, vì thằng này mới là con đầu lòng, xin cha đặt tay phải lên đầu nó.” Nhưng ông từ chối… (St 48, 17‑19)

Bốn lần phép lạ chặn dòng nước

a) Phép lạ tại Biển Đỏ:

  • Ông Mô‑sê giơ tay trên mặt biển… Nước rẽ ra, và con cái Ít‑ra‑en đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước
    sừng sững như tường thành hai bên tả hữu. (Xh 14, 21‑22)

b) Hòm Bia Giao Ước qua sông Gio‑đan:

  • Chân các tư tế khiêng Hòm Bia vừa nhúng vào nước ở ven bờ, thì nước mạn ngược chảy xuống dừng lại… trong khi toàn thể Ít‑ra‑en qua sông trên đất khô cạn. (Gs 3, 15‑17)

c) Ngôn sứ Ê-li-a được đem đi, Ông Ê-li-sa thay thế:

  • Ông Ê-li-a lấy áo choàng của mình, đập xuống nước. Nước rẽ ra hai bên. Hai ông đã đi qua ráo chân. (2V 2, 8)
  • Ông Ê-li-sa lấy áo choàng của ông Ê-li-a đã rơi mà đập xuống nước, nước rẽ ra hai bên, và ông đi qua. (2V 2, 14)

Thờ bò vàng – Tượng vàng

a) Dân Ít‑ra‑en thất trung:

  • Ông A‑ha‑ron lấy vàng từ tay dân chúng trao cho, đem đúc và dùng dao mà gọt đẽo thành một con bê. Bấy giờ họ nói: “Hỡi Ít‑ra‑en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai‑cập.” (x. Xh 32, 1‑6; Tv 106, 19‑21)

b) Vua Gia‑róp‑am và cuộc ly giáo:

  • Vua Gia‑róp‑am làm hai con bò mộng bằng vàng, rồi nói với dân: “Các ngươi lên Giê‑ru‑sa‑lem như thế là đủ rồi! Này, Ít‑ra‑en, Thiên Chúa của ngươi đây, Đấng đã đưa ngươi lên từ đất Ai‑cập.” Vua đặt một tượng ở Bết Ên, còn tượng kia ở Đan. (x. 1V 12, 26‑30)

c) Ông Ghít‑ôn:

  • Ông Ghít‑ôn lấy số vàng đó làm một tượng ê‑phốt và đặt trong thành của ông tại Óp‑ra. (Tl 8, 27)

d) Vua Na‑bu‑cô‑đô‑nô‑xo:

  • Vua Na‑bu‑cô‑đô‑nô‑xo làm một pho tượng bằng vàng cao sáu mươi thước, ngang sáu thước, dựng trong cánh đồng Đu‑ra thuộc tỉnh Ba‑by‑lon… Mọi dân tộc đều sấp mình thờ lạy pho tượng vàng… (Đn 3, 1‑7)

Một lần duy nhất: Mặt trời, mặt trăng đứng yên

  • Trước mặt con cái Ít‑ra‑en, ông Giô‑suê nói: “Hỡi mặt trời, hãy dừng lại trên thành Ghíp‑ôn; hỡi mặt trăng, hãy dừng lại trên thung lũng Ai‑gia‑lôn!”

Mặt trời liền dừng lại, mặt trăng lập tức đứng lại, cho đến khi dân đã trị tội các địch thù… Mặt trời đứng yên ở giữa trời, không vội lặn, gần một ngày tròn. Trước đó và từ đó về sau, không có hôm nào như hôm ấy.
(Gs 10, 12‑14) (x. Kb 3, 11)

Bốn lần Thiên Chúa gọi ông Sa‑mu‑en

  • Đức Chúa lại gọi Sa‑mu‑en lần thứ ba. Cậu dậy, đến với ông Ê‑li và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con.” Bấy giờ ông Ê‑li hiểu là Đức Chúa gọi cậu bé. Ông Ê‑li nói với Sa‑mu‑en: “Con về ngủ đi, và hễ có ai gọi con thì con thưa: Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” Sa‑mu‑en về ngủ ở chỗ của mình.

Đức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước: “Sa‑mu‑en! Sa‑mu‑en!” Sa‑mu‑en thưa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” (1Sm 3, 8‑10)

Đa‑vít tôn trọng người được Đức Chúa xức dầu

a) Ông Đa‑vít tha chết cho vua Sa‑un hai lần:

  • (Lần đầu tại sa mạc Ên Ghe‑đi) Đa‑vít bảo người của ông: “Xin Đức Chúa đừng để tôi làm điều này cho chúa thượng tôi, đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong, là tra tay hại vua, vì người là đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong.” (1Sm 24, 7)
  • (Lần thứ hai tại sa mạc Díp) Ông Đa‑vít nói với ông A‑vi‑sai: “Đừng giết vua! Có ai tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong mà vô sự đâu?” Ông Đa‑vít nói: “Xin Đức Chúa đừng bao giờ để tôi tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong.” (1Sm 26, 9.11)

b) Khi Đa‑vít nghe tin Vua Sa‑un chết:

  • Ông Đa‑vít nói với người đã kết liễu đời vua: “Ngươi không sợ sao mà dám tra tay sát hại người Đức Chúa đã xức dầu tấn phong?” (2Sm 1, 14)

c) Sách Thánh Vịnh:

“Đừng đụng tới những kẻ Ta xức dầu tấn phong,
chớ làm hại các ngôn sứ của Ta.” (Tv 105, 15)

Ngôn sứ Kha‑ba‑cúc

Trong Kinh Thánh, ngôn sứ Kha‑ba‑cúc là người đầu tiên dám cật vấn Thiên Chúa.

a) Sự công chính suy thoái:

  • “Sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác hoài, còn Ngài cứ đứng nhìn cảnh khổ đau? Trước mắt con, toàn là cảnh phá phách, bạo tàn, chỗ nào cũng thấy tranh chấp và cãi cọ.” (Kb 1, 3)

b) Kẻ áp bức đòi hối lộ:

  • “Mắt của Ngài thật quá tinh tuyền không thể chịu được điều gian ác, Ngài không thể nhìn xem cảnh khốn cùng, tại sao Ngài cứ đứng nhìn quân phản bội, sao Ngài lặng thinh khi kẻ gian ác nuốt chửng người chính trực
    hơn mình?” (Kb 1, 13)

Thiên Chúa, Ngài là ai?

Thiên Chúa là Đấng vô cùng, vượt quá tất cả những gì chúng ta có thể hiểu biết và nói lên. Vì Ngài là:

a) Thiên Chúa ẩn mình:

  • Đức Chúa phán với ông Mô-sê: “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống.” (Xh 33, 20)
  • “Lạy Thiên Chúa của Ít‑ra‑en, lạy Đấng Cứu Độ, Ngài quả thật là Thiên Chúa ẩn mình.” (Is 45, 15; 8, 17)
  • Chỉ mình Người là Đấng trường sinh bất tử, ngự trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy. (1Tm 6, 16) (x. Mt 6, 18; G 23, 8-9)

b) Thiên Chúa giàu lòng thương xót:

  • Mô‑sê xướng lên: “Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín.” (Xh 34, 5‑6) (Ep 2, 4)
  • Thiên Chúa là tình yêu. (1Ga 4, 8.16)

c) Thiên Chúa Toàn Năng:

  • “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả.” (Lc 1, 49) (Lc 1, 37; Kn 11, 21)
  • Kể sao cho xiết những gì muốn nói; tắt một lời: “Người là tất cả!” (Hc 43, 27)

d) Đấng Tạo Hóa:

  • Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất.
    (St 1, 1) (Dt 11, 3; Kh 4, 11)
  • Do lời Đức Chúa mà có những công trình của Người. (Hc 42, 15) (Cl 1, 16)
  • Đức Giê‑su phán: “Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ.” (Mt 19, 4) (St 1, 27)

e) Đấng Hiện Hữu:

Thiên Chúa là Đấng Hiện Hữu và Người làm cho hiện hữu là mạc khải quyết định và cũng là Danh Xưng của Người.

  • Thiên Chúa phán với ông Mô‑sê: “Ta là Đấng Hiện Hữu.” (Xh 3, 14) (Tv 90, 2)
  • Đức Chúa là Thiên Chúa phán: “Ta là An‑pha và Ô‑mê‑ga, là Đấng hiện có, đã có, và đang đến, là Đấng Toàn Năng.” (Kh 1, 8) (x. Is 44, 6; Ga 1, 1‑3)

Danh Thiên Chúa không thể tỏ cho người phàm

a) Mặc khải danh Thiên Chúa với Mô‑sê:

  • “Nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?” Thiên Chúa phán với ông Mô‑sê: “Ta là Đấng Hiện Hữu.” Người phán: “Ngươi nói với con cái Ít‑ra‑en thế này: Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em.” (Xh 3, 13‑14

b) Gia‑cóp vật lộn với Thiên Chúa:

  • Ông Gia‑cóp hỏi: “Xin cho tôi biết tên ngài.” Người đó nói: “Sao ngươi lại hỏi tên ta?” Và người đó chúc phúc cho ông. (St 32, 30)

c) Truyền tin ông Sam‑sôn ra đời:

  • Bấy giờ ông Mô‑ni‑ác nói với sứ giả của Đức Chúa: “Xin ngài cho biết quý danh, để khi xảy ra như ngài nói, chúng tôi sẽ trọng đãi ngài!” Sứ giả của Đức Chúa nói với ông: “Sao ông lại hỏi tên tôi? Đó là một điều
    bí nhiệm.” (Tl 13, 17‑18)

d) Cuộc chiến cánh chung:

  • Mắt Người như ngọn lửa hồng, đầu Người đội nhiều vương miện, Người mang một danh hiệu viết trên mình, mà ngoài Người ra chẳng ai biết được. Người khoác một áo choàng đẫm máu, và danh hiệu của Người là: “Lời của Thiên Chúa.” (Kh 19, 12‑13)

Bình Luận